BREAKING NEWS
Hiển thị các bài đăng có nhãn goc lam giau. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn goc lam giau. Hiển thị tất cả bài đăng

13/6/14

Cách duy nhất để trở thành triệu phú, tỷ phú và siêu tỷ phú

Richard Branson được xếp thứ 5 trong danh sách các doanh nhân giàu nhất nước Anh, và xếp thứ 254 trong danh sách tỷ phú của Forbes năm 2011. Lối tư duy đưa ông thành tỷ phú"Mặc kệ nó, làm tới đi".


Yếu tố quan trọng nhất và đơn giản nhất trong chuyện làm giàu thời hiện đại - là đầu tư. Tất cả những gì bạn phải làm là rót tiền (gần như toàn bộ tiền bạn có) vào (những) mục tiêu xác định. Nếu có kết quả tích cực, một năm sau bạn sẽ kiếm thêm được 3% lợi nhuận, nếu không, chuyện mất trắng là khó tránh, tạp chí doanh nghiệp Inc. khẳng định.

Song, không phải ai cũng dám mạo hiểm; Bởi hàng triệu người hiện nay - ngày ngày vẫn đi làm thuê.

Dĩ nhiên, nếu nói một cách lạc quan, bạn làm việc cho ông chủ giàu có và hưởng vài lần tăng lương đáng kể. Song hầu hết các trường hợp, số tiền này không bao giờ là cả một gia tài. Ngược lại, một kịch bản khác tiêu cực hơn là bạn bỗng nhiên bị đuổi việc hoặc doanh nghiệp nơi bạn làm việc phá sản - mọi công sức, thời gian, cống hiến và hy sinh đổ xuống sông xuống biển (trường hợp này không xét đến những người an phận với số tiền kiếm được hàng tháng).

Viễn cảnh lạc quan thường có hạn, trong khi đó, có vô số trường hợp đóng cửa, phá sản hoặc nghỉ việc hàng ngày. Đó là hệ quả của việc đầu tư "nhầm".

Giàu vì "tiền"

Thực tế, nếu bạn mơ về những giấc mơ giàu có, chuyện đi làm thuê sẽ chẳng bao giờ biến giấc mơ thành thực. Chính phủ Mỹ cũng phải đồng ý với nhận định này.

Hãy kiểm tra đơn khai thuế của 400 cá nhân hàng năm của Sở Thuế vụ Mỹ (Internal Revenue Service - IRS) công bố mới đây:

Vào năm 2009, cần có 77, 4 triệu đô la trong tổng thu nhập để lọt vào top 400. Con số này đã giảm từ 109,7 triệu đô (2008) và giảm một cách đáng kể từ kỉ lục cao nhất là từ 238, 8 triệu đô (2007).

Điểm thú vị ở đây là cách top 400 người kiếm ra tiền:
Tiền lương bổng: 8.6%
Lãi suất: 6.6%
Cổ tức: 13%
Quan hệ đối tác và liên minh: 19,9%
Thặng dư vốn: 45, 8%

Vài kết luận có thể thấy được ở đây là:
Làm việc kiếm lương sẽ không làm bạn giàu lên được.

Sở hữu những khoản đầu tư "thu nhập" an toàn cũng không làm bạn giàu lên được.

Đầu tư được vào nhóm công ty lớn sẽ không giúp bạn giàu lên.

Sở hữu một hay nhiều doanh nghiệp, dù là cổ phần hay cộng tác, không chỉ lập được quỹ tiền vững chắc mà một ngày nào đó còn có thể....tạo ra một vận may tài chính khổng lồ.

Bạn thấy số liệu của Sở Thuế vụ Hoa Kỳ khó tin? Hãy kiếm tra chéo với danh sách tỷ phú của Forbes: Bill Gate, Carlos Slim Helu, Amancio Ortega, Warren Buffet, Larry Ellison, Charles Koch, David Koch, Sheldon Adelson, Christy Walton...

Rõ ràng, làm giàu - về mặt tiền tệ - là kết quả của việc đầu tư vào chính mình và người khác, chấp nhận rủi ro, làm thành công nhiều công việc nhỏ...và rồi làm những việc to lớn hơn một cách đúng đắn.

Nhưng điều gì xảy ra nếu bạn vẫn không thể (hoặc chưa thể) thấy mình giàu có? Vẫn còn một kiểu "giàu có" khác.

Giàu vì "tình"

Các doanh nhân đều có chung một điểm khó phủ nhận. Khi ai đó nói chuyện với họ về những thứ liên quan tới "tiền" - chiến lược phát triển, doanh thu, IPO, ...họ tỏ ra khá hứng thú, nhưng thực sự bản thân họ không gắn bó máu thịt với những chuyện đó bằng một thứ khác.

Đó là đời sống doanh nhân. Là một doanh nhân, họ cảm thấy ra như thế nào? Câu hỏi này thường khiến đa số họ hào hứng vô cùng. Họ bắt đầu cởi mở chia sẻ về những thử thách, trách nhiệm, sứ mệnh, mục đích, hay cách họ tiếp nhận thành quả, niềm vui khi "ngồi đúng" vị trí trong những "đội quân" thực sự và quản trị những "đứa con số phận" ra sao...

Những biểu hiện về tâm lý ở trên xảy ra thường xuyên. Theo tạp chí doanh nghiệp Inc., tâm lý này xảy ra khi xuất hiện nhiều điểm nối giữa những giấc mơ vô định và nhiều con số kinh doanh đo đếm được.

Mọi doanh nhân thường thích nói chuyện về chuyện "làm doanh nhân ra sao", vì khi đó họ thấy mình đang sống - thoải mái hiện thực hóa mọi kế hoạch, được quyền quyết định, được quyền mắc sai lầm. Khi đó thế giới của họ không bị giới hạn trong những con số tài chính, mà còn mở rộng ra tới mọi góc cạnh cá nhân. Ở khía cạnh đó, họ thấy mình giàu có - thực sự giàu có.

Vì vậy, để người giàu thấy mình giàu có kiểu đo đếm được (góc độ tài chính) hay vô định (góc độ cá nhân), họ đều phải bước chung một con đường - là sở hữu doanh nghiệp của riêng mình.

Kết luận trên không xui khiến bất kỳ ai bỏ việc ngay lập tức; trên thực tế, bạn không nên làm thế. Một trong những cách hạn chế rủi ro là bạn vẫn giữ một công việc cố định trong khi từng bước xây dựng cơ ngơi của riêng mình.
Một lý lẽ khó thể chối cãi, là thế giới luôn tồn tại một nhóm người sống cuộc đời của họ theo những cách riêng nhất, giúp họ đi đến tận cùng cuộc sống nhất. Họ là doanh nhân.

Fx4pro sưu tầm

12/6/14

LÀM GIÀU – CHỈ CÓ KẺ NGU MỚI CHỐNG HOA KỲ

Mỹ nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số một

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng.


Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lý là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin , Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.

Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam . (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.

Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam , là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.

Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore . Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.

Cuộc cạnh tranh cuối cùng

Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.

Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.

Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.


Tại sao tôi lại tin vào thành công dài hạn của Hoa Kỳ

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.

Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.

Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore . Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.

Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.

Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.

Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York . Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge ). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.

Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York , bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lý Quang Diệu
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 5 năm 2014
Dịch: Nguyễn Việt Vân Anh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Fx4Pro sưu tầm

1/5/14

Ước mơ (Dream - Motivational Video)




Hãy dạy con bạn cách ước mơ và thực hiện nó 

Đừng bao giờ từ bỏ giấc mơ của mình vì những điều kiện hiện tại không cho phép bạn thực hiện nó, hãy cứ tiếp tục theo đuổi, từng bước một, bạn sẽ mỗi ngày tiến đến gần giấc mơ của mình hơn.


16/4/14

19 bí quyết kiếm tiền và tiêu tiền

Thường thì, những người giàu không bao giờ nói với bạn rằng, họ tiêu ít hơn số tiền kiếm được, họ chỉ muốn đãi bạn bè những món “bình dân”, hay sự cần thiết phải tiết kiệm từ khi còn rất trẻ…

14/4/14

Các tỷ phú trên thế giới định nghĩa thất bại như thế nào?

Thành công luôn là điều ngọt ngào. Song những doanh nhân thành công và giàu có nhất thế giới luôn biết rất rõ: họ học hỏi được rất nhiều từ thất bại hơn là từ những thành công. Họ luôn nghĩ đúng về thất bại – như một cơ hội chứ không phải là rào cản.

10/4/14

10 câu nói bất hủ của Bill Gates.

Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp.


Trước khi về hưu vào đầu tháng 7 năm nay

Bill Gates – ông chủ của tập đoàn máy tính lớn nhất thế giới Microsoft – đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp.

Chúng tôi xin giới thiệu và mời các bạn tham khảo những lời khuyên bổ ích của người đàn ông giàu nhất thế giới này, có thể một ngày nào đó bạn cũng sẽ trở thành một Bill Gates thứ hai?

1. Thế giới vốn không công bằng. Bạn biết điều này chứ? Dù bạn có nhận thấy sự bất công trong xã hội hay không thì cũng đừng hy vọng làm thay đổi được nó. Việc cần làm là hãy thích nghi với nó.

(Sở dĩ như vậy là một mình bạn sẽ không thể nào làm thay đổi được sự bất công trong xã hội)

2. Mọi người sẽ không bao giờ ngó ngàng đến lòng tự trọng của bạn, điều mà họ quan tâm chính là thành tựu mà bạn đạt được. Do đó, trước khi có được những thành tựu thì bạn đừng nên quá chú trọng hay cường điệu lòng tự trọng của bản thân mình lên.

(Lòng tự trọng quá cao sẽ tỷ lệ thuận với sự bất lợi trong công việc của bạn)

3. Thường thì bạn sẽ không thể trở thành CEO nếu chỉ mới tốt nghiệp trung học. Nhưng khi bạn đã trở thành một CEO thì không còn ai để ý là bạn mới chỉ có tốt nghiệp trung học nữa.

(Lúc này người ta sẽ đánh giá và quan tâm nhiều đến năng lực hơn là bằng cấp của bạn)

4. Khi bạn gặp khó khăn hay bế tắc trong công việc thì đừng có oán trách số phận. Điều bạn học được khi gặp trắc trở chính là kinh nghiệm và bài học để lần sau không bao giờ mắc phải nữa.

(Điều cần làm lúc này là trấn tĩnh và bắt tay làm lại từ đầu)

5. Nên hiểu một điều rằng: Trước khi có bạn, bố mẹ bạn không phải là những người “chán ngắt, vô vị” như bạn của ngày hôm nay đã nghĩ. Đây chính là cái giá rất lớn mà bố mẹ đã phải trả cho sự trưởng thành của bạn.

(Bạn phải có nghĩa vụ đền đáp công ơn với những người đã dành cả cuộc đời mình cho sự sống và trưởng thành của bạn

6. Khi đi học, bạn đứng thứ mấy trong lớp cũng không phải là vấn đề quan trọng. Nhưng khi đã bước chân ra xã hội thì mọi việc lại không đơn giản như vậy. Dù đi đâu hay làm công việc gì bạn cũng nên tạo đẳng cấp cho mình.

(Luôn tự nhủ rằng bạn sẽ luôn là người đứng đầu, như vậy bạn sẽ có động lực và tinh thần nhiều hơn cho sự nghiệp của bản thân)

7. Khi đi học, bạn luôn mong chờ đến ngày nghỉ lễ, Tết. Khi đi làm thì hoàn toàn không giống vậy, dường như là bạn sẽ không được nghỉ ngơi. Công việc sẽ cuốn bạn đi bất cứ lúc nào kể cả ngày nghỉ.

(Nếu là một nhân viên luôn mong chờ ngày nghỉ lễ thì bạn sẽ bị lạc hậu hơn so với những nhân viên khác. Sự lạc hậu này còn luôn đồng hành với sự đào thải và thất nghiệp).

8. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên thì bạn đừng nên đi làm sau khi tốt nghiệp. Đơn giản nếu như không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty thì chắc chắn bạn sẽ không làm được gì và sẽ nhanh chóng thất nghiệp, hơn nữa lúc này sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

(Nên nhận thức được rằng: Công ty sẽ luôn yêu cầu cao hơn rất nhiều so với trường học. Vì ở trường học, dù bạn có học được hay không thì chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bạn. Còn ở công ty bạn có làm được việc hay không thì lại ảnh hưởng đến rất nhiều người)

9. Mọi người đều thích xem phim truyền hình, nhưng bạn không nên xem nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn. Vì công việc ở công ty mới phản ánh cuộc sống thực của bạn

(Bạn không nên xem nhiều vì tư tưởng của bạn sẽ bị ảnh hưởng bởi những bộ phim truyền hình đó. Cuộc sống của bạn nên do bạn quyết định)

10. Không bao giờ phê bình người khác sau lưng của họ, đặc biệt đừng bao giờ phê phán sếp là người không có năng lực, điều này là không đúng.

(Nếu bạn có thắc mắc gì trong công việc thì nên nói ý kiến của mình trước mặt mọi người. Còn nếu như bạn luôn giữ thái độ và hành động phản kháng sau lưng người khác thì chỉ có bất lợi cho bạn mà thôi).

Chủ tịch HSBC: “Tôi từng du học chỉ với 16 USD”

“Tôi đến New Zealand du học chỉ vẻn vẹn 16 USD trong túi. Đầu tiên là phải tìm việc làm thêm, việc mà nhiều người khác không bao giờ làm…”.


Chủ tịch ngân hàng giàu nhất châu Âu nhớ lại thủa hàn vi:

“Tôi đến New Zealand du học chỉ vẻn vẹn 16 USD trong túi. Đầu tiên là phải tìm việc làm thêm, việc mà nhiều người khác không bao giờ làm…”.

Từ năm 2005, tên tuổi của Vincent Cheng mới được đông đảo người dân Việt Nam biết đến khi ông đứng trên cương vị Chủ tịch của Ngân hàng

Hồng Kông – Thượng Hải (HSBC), ngân hàng lớn nhất châu Âu và lớn nhất thế giới về tài sản có.

Sau khi nhậm chức, tân Chủ tịch HSBC đến Việt Nam, lần đầu tiên ông đặt chân đến thị trường mà ngân hàng mình đã có cả trăm năm lịch sử. Người Việt Nam bắt đầu biết đến ông với con đường “từ vỉa hè đến ghế Chủ tịch HSBC”.

Từ “vỉa hè” này được ông Vincent Cheng giải thích: “Tôi sinh ra ở một gia đình nghèo ở khu phố Shamshuipo, Cửu Long (Hồng Kông). Tôi thường phụ bố bán trái cây ven đường. Nhà nhỏ nhưng có tới 8 gia đình với 20 người cùng chung sống. Nóng bức, chật chội, tôi thường phải ra đường ngủ”.

Nằm đường, ngủ bụi là những bài học đầu tiên trong “kỹ năng” kiếm sống của nhân vật châu Á đầu tiên có vị trí lãnh đạo cao nhất của một ngân hàng châu Âu sau này.

“Thời đó, Hồng Kông còn nghèo lắm. Cha mẹ tôi tin tưởng rằng giáo dục sẽ làm thay đổi cuộc sống con người, cuộc sống nghèo khó này. Và bản thân tôi cũng ý thức được điều đó. Tôi đã học và nỗ lực làm việc để được học”, ông Vincent Cheng kể.

Đó là lần đầu tiên chàng trai Vincent Cheng xuất ngoại với mục đích trang bị cho mình những kiến thức “để thay đổi cuộc sống con người”, theo đúng khái niệm du học đang nở rộ ở Việt Nam hiện nay.

Đến New Zealand chỉ vẻn vẹn 16 USD trong túi, định hướng đầu tiên là Vincent tìm một việc làm bán thời gian. Phải làm việc để có tiền sống, tiền học. Cũng khá đơn giản, cứ gõ cửa và hỏi “các ông có việc gì cho tôi không?”. Nhưng, vì một khiếm khuyết của thân thể (ông bị tật ở chân từ nhỏ) nên công việc Vincent tìm được là việc mà nhiều thanh niên hồi ấy không làm: rửa chén đĩa cho các nhà hàng.

Mỗi tuần 5 ngày, mỗi ngày 6 tiếng, mỗi tiếng được 1,5 USD. Cứ thế Vincent vừa làm vừa học cho đến khi tìm được những công việc tốt hơn. Nhưng quan trọng nhất là ông có được nguồn tài chính đảm bảo cho mục đích học tập.

Điều quan trọng nhất đó được ông Chủ tịch ngày nay truyền lại cho sinh viên Việt Nam, rằng: “Khi du học, tốt nhất các bạn hãy tìm một công việc bán thời gian để trang trải các chi phí. Các bạn có thể tìm các nguồn vốn để vay nhưng cần làm việc để trả lại số tiền đó”.

Sau khi du học, tốt nghiệp, Vincent Cheng đầu quân cho Ngân hàng HSBC. Tất nhiên là phải trải qua một cuộc sát hạch khó khăn. Đó là vào năm 1978. 10 năm làm việc miệt mài sau đó đã đưa chàng rửa bát thuê ngày nào trở thành một nhân vật có tiếng trong cỗ máy HSBC. Và năm 1989, ông Cheng chuyển sang công tác tại Bộ phận chính sách Trung ương của Chính phủ Hồng Kông, với vai trò cố vấn của Thống đốc Hồng Kông.

Hai năm sau, Vincent Cheng tái nhập HSBC, nắm giữ vị trí Giám đốc cao cấp của bộ phận Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược. Năm 1994, ông trở thành Giám đốc tài chính của ngân hàng khổng lồ này và chỉ một năm sau đó, tháng 5/1995, ông đã là Tổng giám đốc và nắm giữ vị trí Giám đốc điều hành

Ngày 25/5/2005, lần đầu tiên trong lịch sử HSBC vị trí Chủ tịch được dành cho một người châu Á, không phải là người Anh: Vincent Cheng. Chàng thanh niên với 16 USD trong túi ngày nào đã là chủ tịch của một ngân hàng có mức lợi nhuận gấp 1 tỷ lần con số thủa hàn vi đó, trên 15 tỷ USD mỗi năm.

Một sự thăng tiến nhanh chóng. Đó là tài năng và động lực từ thủa hàn vi. “Nhưng, đầu quân vào HSBC không phải là sự lựa chọn tốt nhất của đời tôi, mà là chọn được ý trung nhân của mình”, ông nói.

Người đàn ông 58 tuổi này rất hạnh phúc khi nói về gia đình của mình, về phu nhân và hai cô con gái. Ông ít có thời gian cho gia đình, vì vậy, thay vì đánh golf với bạn bè, ông lựa chọn ở nhà; tất nhiên là đưa việc về nhà. Và dễ thấy trong các chuyến công du của ông, chiếc vé thứ hai thường được đặt cho vợ – “như thế tôi được gần gũi hơn với người thân, với gia đình dù công việc luôn bận rộn”.

Ông Vincent Cheng đang dẫn đầu Hội đồng quản trị Ngân hàng HSBC châu Á – Thái Bình Dương tới Việt Nam để tham dự cuộc họp hội đồng quản trị thường niên. Trao đổi với VnEconomy, ông Cheng nói việc lựa chọn Việt Nam để tổ chức cuộc họp này cho thấy tầm quan trọng của thị trường Việt Nam trong chiến lược phát triển của HSBC hiện nay và trong tương lai.

Dự kiến ông Cheng sẽ có những cuộc gặp quan trọng với đại diện Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong chuyến công tác này.

Trước đó, một số thông tin dự báo nhiều khả năng HSBC sẽ mua thêm cổ phần của Ngân hàng Kỹ thương Techcombank khi tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngân hàng nội được nâng từ 10% lên 20%.

Chiều qua, ông Cheng cũng đã tham dự Lễ trao học bổng HSBC niên học 2006 – 2007 cho 40 sinh viên các trong đại học Hà Nội. Năm nay, HSBC dành 110 suất học bổng trị giá 330 triệu đồng cho sinh viên Việt Nam (tại Hà Nội và Tp.HCM).

Nguồn TBKTVN

Bước khởi đầu của các CEO nổi tiếng

CEO Rex Tillerson của Exxon Mobil từng là một người trông giữ trẻ. Còn vị chủ tịch của ngân hàng J.P Morgan Chase đã có thời là đầu bếp nấu món khoai tây chiên.

Tóm tắt: Trên thực tế, có rất nhiều những vị CEO giàu có và đầy quyền lực đã kiếm được những đồng tiền lương đầu tiên bằng những công việc như cắt cỏ, chuyển báo… …

CEO Rex Tillerson của Exxon Mobil từng là một người trông giữ trẻ. Còn vị chủ tịch của ngân hàng J.P Morgan Chase đã có thời là đầu bếp nấu món khoai tây chiên.

Trên thực tế, có rất nhiều những vị CEO giàu có và đầy quyền lực đã kiếm được những đồng tiền lương đầu tiên bằng những công việc như cắt cỏ, chuyển báo…

Dưới đây là 10 vị CEO với những công việc khởi đầu đầy thú vị.

1. Doug McMillon – Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Wal-Mart



Doug McMillon hiện là Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của chuỗi các cửa hàng Wal-Mart. Wal-Mart là nơi đầu tiên Doug McMillon làm việc. Ông đã đến làm tại kho hàng Arkansas của tập đoàn này khi mới 17 tuổi với mức lương 6 đôla một giờ.

Ngày nay, mặc dù đã ngồi trên vị trí cao nhất của tập đoàn, Doug McMillon vẫn cho rằng những kỹ năng và kiến thức học được từ công việc đầu tiên tại kho hàng Wal-Mart vẫn được sử dụng rất hiệu quả cho công việc ở vị trí chủ tịch đầy quyền lực của ông hiện tại.

Ông nói: “Những thành công trong công việc nhóm và sự chăm chỉ sẽ được đền đáp. Nếu bạn không biết tận dụng thời gian, không phấn đấu nỗ lực làm việc chăm chỉ trên cả mong đợi của những nhà lãnh đạo thì bạn sẽ không bao giờ có thể thăng tiến được”.

2. Michael Dell, Chủ tịch Công ty công nghệ Dell


Dell là một công ty về công nghệ được thành lập vào năm 1984 tại Austin, bang Texas, tên của công ty này được đặt theo tên của người sáng lập và cũng là giám đốc điều hành Michael Dell. Trong năm 2011, tạp chí Forbes đã bình chọn ông là một trong số những người giàu có nhất thế giới với tổng giá trị tài sản ước tính lên tới 15 tỷ USD. Và công ty Dell của ông xếp trong top 500 của tạp chí Fortune.

Michael Dell bắt đầu làm công việc giặt là vào lúc 12 tuổi tại một nhà hàng của Trung Quốc với mức lương chỉ 2,3 đôla một giờ. Sau đó ông tiếp tục đến làm việc tại một nhà hàng Mexico. Ông chính thức rời bỏ công việc tại những nhà hàng và đến với công việc tại một cửa hàng bán tem và những đồng xu hiếm. Sau đó, ông đến với công việc bán báo qua điện thoại cho đến lúc 16 tuổi.

3. John Dasburg, Giám đốc điều hành hãng hàng không ASTAR Air Cargo


ASTAR Air Cargo là một hãng hàng không có mặt tại hơn 40 sân bay và cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa cho Bộ Quốc phòng Mỹ. Giám đốc điều hành của công ty này ông John Dasburg, một người có tài năng rất đặc biệt.

Ngay từ khi 10 tuổi, Dasburg chứng tỏ tài năng của mình khi quyết định kiếm những đồng tiền đầu tiên bằng công việc cắt cỏ thuê cho người hàng xóm. Tuy nhiên công việc thì quá nhiều, và ông nhận ra rằng ông không thể làm một mình. Ông đã giải quyết tình hình đó bằng cách chia sẻ bớt công việc cho những người bạn bè của mình và ăn phần trăm từ họ.

4. T.Boone Pickens, CEO BP Capital Mgmt


Theo tạp chí Forbes thì tài sản của Pickens lên tới 1,4 tỷ USD. Tuy nhiên khi ông làm công viêc đầu tiên của mình với nghề phát báo ở Holdenville, Oklahoma, ông chỉ kiếm được 28 cent một ngày. Đó là lúc Pickens 12 tuổi.

Công việc đó đã cho Pickens cảm giác tự do đầu tiên, ông nói: “Từ đó tôi không cần tiền của bố mẹ nữa, tôi muốn tự mình kiếm chúng.”

Ông nói rằng việc kiếm tiền từ những khách hàng không muốn trả tiền cho ông đã dạy cho ông một bài học quý báu: “Bạn phải kiên định nếu bạn muốn đạt được mục đích của mình. Bạn sẽ không biết được công việc hằng ngày sẽ dẫn bạn tới điều gì, chính vì vậy hãy đặt mọi tâm trí của mình vào mọi việc.”

5. Terry Lundgren, CEO của Tập đoàn Macy


Công việc đầu tiên của ông bắt đầu sau khi ông tốt nghiệp đại học, đó là làm ở cửa hàng Federated. Tuy nhiên, là một sinh viên mới tốt nghiệp, Lundgren lúc đó chưa chắc chắn những gì ông muốn cho cuộc sống. Ông từng có ý định học thú y nhưng sau một năm lại chuyển sang học kinh doanh.

Lundgren làm tại cửa hàng Federated vào năm 1975 và làm cho chi nhánh của công ty Bullocks Wilshine ở Los Angeles. Đến năm 35 tuổi, ông đã làm trưởng chi nhánh đó. Năm 2005, ông tham gia vào thương vụ sát nhập hai cửa hàng Federated và May, đến năm 2007 hai công ty hợp nhất lại thành tập đoàn Macy và trở thành một nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hiện nay.

6. Clarence Otis, Jr., CEO của Chuỗi cửa hàng ăn Darden


Chuỗi cửa hàng ăn Darden ở bang Florida của Mỹ hoạt động như một cơ sở ăn uống giống Olive Garden và Red Lobster. Trong năm 2010, thời báo Orlando Sentinel xếp Clarence Otis vào 11 người quyền lực nhất miền trung Florida với lý do ông quản lý 1.800 cửa hàng ăn uống và 180.000 nhân công.

Khi Otis gia nhập công ty vào năm 1995 với chức danh thủ quỹ, ông đã có kinh nghiệm về kinh doanh dịch vụ ăn uống. Ở tuổi 17, Otis làm nhân viên phục vụ tại cửa hàng ăn uống ở sân bay Los Angeles và kiếm được 3,5 USD một giờ. Ông nói rằng việc phục vụ một lượng lớn người ở mọi đẳng cấp đã giúp ông có một thái độ và tư tưởng tích cực.

7. Jack Schuessler, CEO của Wendy International


Tập đoàn Wendy International là công ty mẹ của Wendy, chuỗi cửa hàng hamburger lớn thứ 3 thế giới. Jack Schuessler đã làm cho công ty 30 năm và từ năm 2000 đến 2006 ông đã trở thành CEO.

Công việc đầu tiên của Schuessler là công việc khuân vác tại nhà máy ST. Louis với mức lương 2,45 USD một giờ. Ông cho rằng tính lặp đi lặp lại của Công việc làm ông thấy nhàm chán trong suốt 8 tiếng làm việc.

Dù không thích công việc đó lắm, ông vẫn khẳng định nó đã dạy ông một bài học rất quan trọng: “Nếu bạn không làm việc, bạn sẽ không bao giờ được trả công”.

8. Bill Watkins, CEO của Seagate Technolog


Seagate Technology là nhà sản xuất ổ cứng lớn nhất thế giới. Bill Watkins gia nhập công ty vào năm 1996 sau đó thăng tiến đến vị trí chủ tịch kiêm giám đốc điều hành vào năm 2004, và giữ vị trí đó đến năm 2009 khi ông nghỉ hưu.

Watkins đã có một cuộc đời rất đặc biệt trước khi đến được vị trí cấp cao đó. Khi ông tốt nghiệp trung học năm 1971, Watkins tham gia quân ngũ và phục vụ trong căn cứ Missouri với vai trò là một người cứu thương. Sau khi giải ngũ, ông làm ca đêm tại một bệnh viện tâm thần với nhiệm vụ kiềm chế bệnh nhân.

Sau đó ông từ bọ mọi thứ và đến bang California nơi mà ông làm việc với Xdex, nhà sản xuất đĩa mềm tại thung lũng Silicon. Từ đó ông làm trong lĩnh vực công nghệ cao.

9. Michael Morris, CEO của Công ty điện American Electric Power


American Electric Power là một trong số những nhà sản xuất điện lớn nhất nước Mỹ. Công ty này là nguồn cung cấp điện năng chính cho 38 bang của Mỹ và một phần của miền đông Canada.

Morris bắt đầu đi làm từ hồi 11 tuổi cho công ty Ohio’s Toledo Blade với việc phát báo và kiếm được 5 USD một ngày. Ông tin rằng công việc đó đã giúp ông có được một phong cách công nghiệp. Ngày nay, ông khuyến khích những nhân viên có những phẩm chất tương tự.

10. Susan Story, CEO của công ty Gulf Power


Công ty Gulf Power là một công ty điện có trụ sở ở Florida. Phục vụ hơn 400.000 khách hàng trải dài từ tây bắc Alabama, Florida đến vịnh Mexico.

Susan Story chính là CEO và chủ tịch hội đồng quản trị của công ty Gulf Power, 17 tuổi bà đã làm cho tờ báo Sand Mountain Reporter, một tờ báo của Alabama với lượng phát hành 20,000 bản. Story đã làm công việc đó với mức lương chỉ 2,85 USD một giờ.

Công việc của bà bao gồm viết quảng cáo, thông báo. Bà nói rằng công việc cho phép bà nhìn ra những cơ hội bên cạnh những trách nhiệm trong công việc của mình.

Tạ Linh (theo CNBC)

Warren Buffett thừa nhận mắc 5 sai lầm

Tỷ phú huyền thoại Warren Buffett thừa nhận mắc 5 sai lầm


Được biết đến như nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới,

sở hữu khối tài sản hơn 40 tỷ USD, vậy nhưng Warren Buffett cũng đã mắc không ít sai lầm trong đầu tư. Ông vừa lên tiếng thừa nhận trong bức thư thường niên gửi cổ đông.
Trong quý 4 vừa qua, lợi nhuận của tập đoàn Berkshire Hathaway Inc. mà Warren Buffett làm Chủ tịch kiêm CEO đã sụt giảm đến 30% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 3,05 tỷ USD. Và trong bức thư thường niên gửi tới các cổ đông của mình, nhà đầu tư huyền thoại này đã không ngần ngại chỉ ra những sai lầm mắc phải thời gian qua.

Không chỉ là nhà đầu tư đại tài, Warren Buffett còn nổi tiếng thẳng thắn

1. Sự phục hồi của thị trường BĐS

Sai lầm: Trong bức thư thường niên năm ngoái Buffett dự đoán rằng thị trường nhà ở Mỹ sẽ bắt đầu phục hồi trong năm nay và là động lực giúp kinh tế phục hồi.

Giải thích: Buffett đã không hề vòng vo khi thừa nhận rằng ông đã “phạm sai lầm chết người” khi đưa ra nhận định trên. Nhưng ông cho rằng nhu cầu nhà ở trong tương lai tất yếu sẽ tăng do tăng dân số tự nhiên. Và bức thư có đoạn: “Vào những thời điểm nhất định người ta có thể quyết định tạm ngừng việc kết hôn nhưng cuối cùng việc đó vẫn sẽ xảy ra. Trong giai đoạn suy thoái, phản ứng đầu tiên của mọi người có thể là chọn cách sống chung với gia đình chồng/vợ nhưng việc này sẽ nhanh chóng trở nên kém hấp dẫn”.

2. Ngành năng lượng

Sai lầm: Buffett đã chi khoảng 2 tỷ USD mua trái phiếu của tập đoàn năng lượng Energy Future Holdings ở Texas. Thế nhưng đến nay giá trị số trái phiếu này hiện chỉ còn 878 triệu USD. Và ông thừa nhận ngay cả con số khiêm tốn còn lại này cũng có thể bị xóa sạch

Đầu tư vào Energy Future Holdings là sai lầm của Buffet.

Giải thích: Nhà đầu tư huyền thoại thẳng thắn thừa nhận ông đã nhận định sai về triển vọng của công ty trên cũng như về diễn biến của giá xăng dầu. “Tuy nhiên sự thật là tôi đã đánh giá sai khả năng lời/lỗ khi tôi mua trái phiếu. Như cách nói của những người chơi tennis, đây là một sai lầm không đáng có”.

3. Hoạt động M&A

Sai lầm: Một số công ty mà Berkshire Hathaway mua lại thời gian qua không đóng góp nhiều cho lợi nhuận của họ. Mặc dù không chỉ ra đích danh những thương vụ nào nhưng Buffett thừa nhận một số công ty đang có kết quả kinh doanh nghèo nàn.

Giải thích: Vị tỷ phú người Mỹ cho biết ông đánh giá sai các doanh nghiệp này trước khi Berkshire mua lại chúng vì đôi lúc ông không lắng nghe vị Phó Chủ tịch của mình là Charlie Munger. “Tôi cố gắng dự đoán tình hình trong vòng 10 – 20 năm mỗi khi tiến hành một thương vụ mua lại nhưng đôi khi thị lực của tôi không được tốt”, Buffett tự châm biến. “Trong khi đó Charlie có đôi mắt tinh tường hơn. Ông ấy đã bỏ phiếu chống trong nhiều thương vụ sai lầm của tôi”.

4. Cổ phiếu dầu mỏ

Sai lầm: Trong năm 2008 Buffett đã tăng gấp 4 lần tỷ lệ sở hữu tại tập đoàn dầu mỏ ConocoPhillips khi giá dầu và gas gần đạt đỉnh. Và đến nay khoản đầu tư này khiến Berkshire thiệt hại vài tỷ USD.

Dù có những sai lầm nhưng quan điểm của Buffett vẫn rất được trân trọng

Giải thích: Buffett cho biết ông không thể lường trước giá dầu lại sụt giảm ghê gớm như cuối năm 2008. “Trong năm 2008 tôi đã phạm nhiều sai lầm ngớ ngẩn trong đầu tư. Ít nhất đã có một quyết định sai lầm nghiêm trọng cùng một vài bước đi kém sáng suốt khác và tất cả đều gây tổn thất”.

5. Ngành dệt may

Sai lầm: Buffett cho rằng bản thân việc mua lại Berkshire Hathaway chính là quyết định đầu tư tệ hại nhất của mình. Vào những năm 1960 đây còn là một nhà máy dệt may hoạt động cầm chừng ở New England. Thế nhưng ông vẫn để cho nó hoạt động thêm 20 năm trước khi đóng cửa hoàn toàn.

Giải thích: Buffett cho biết ông đã không nhận ra rằng ngành dệt may sẽ nhanh chóng thua lỗ. “Điều ngớ ngẩn nhất tôi đã từng làm đó là theo đuổi những cơ hội để cải thiện và mở rộng hoạt động dệt may đang có. Vậy nên tôi đã mất nhiều năm cho việc đó. Và rồi, tôi lại bỏ tiền mua một công ty dệt may nữa. Nhưng cuối cùng trực giác mách bảo và tôi chuyển sang lĩnh vực bảo hiểm, sau đó là các ngành khác”.

Theo AP

Gia tộc chi phối cả hệ thống tiền tệ châu Âu

Ngày nay, khi nhắc tới người giàu nhất thế giới, người ta thường chỉ nghĩ tới ba cái tên: Bill Gates, Warren Buffett và Carlos Slim.

Ba người này chỉ thay đổi vị trí từ số 1 đến số 3 trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Tuy nhiên, thực chất, những gia tộc quyền thế như Rothschild mới thực sự là những người giàu nhất thế giới, dù chưa bao giờ họ công khai lộ diện…

1. Ngày 23/2 năm 1744, Mayer Amschel Bauer chào đời tại một khu dân cư của người Do Thái ở Frankfurt. Gia đình đình của Mayer đã chuyển tới đây từ giữa thế kỷ thứ 16 và làm nghề cho vay lãi. Khu tập trung của người Do Thái ở Frankfurt là khu dân cư nổi tiếng ở Đức cũng như trên toàn châu Âu. Thời bấy giờ, người ta gọi nó bằng cái tên “Phố Do Thái” (Judengasse).

Từ thời Trung Cổ cho tới khi Mayer chào đời, địa vị xã hội của người Do Thái ở Franfurt luôn được coi là thấp kém, thường bị khinh rẻ. Những người Do Thái ở Frankfurt chỉ được ở tại Judengasse, không được phép sống ở bên ngoài.

Thậm chí ra ngoài còn phải mặc những bộ quần áo đặc biệt để nhận biết họ là người Do Thái. Xung quanh Judengasse có một bức tường bao rất kiên cố và chỉ có 3 cánh cổng thông ra bên ngoài. Những cánh cổng này vào ban đêm hoặc những ngày lễ của Thiên Chúa Giáo đều bị đóng kín. Nói cách khác, vào những ngày này, người Do Thái ở Judengasse không được phép ra ngoài.

Năm Mayer 12 tuổi, cha mẹ cậu lần lượt mắc bệnh và qua đời. Mayer được đưa vào học trường đào tạo các giáo sĩ Do Thái giáo.

Sau đó ít lâu, Mayer rời quê hương tới làm việc với tư cách một thực tập sinh tại ngân hàng Heimer ở Hannover. Với sự mẫn cảm và tính cần cù phấn đấu hơn người, Mayer đã nhanh chóng nắm bắt được các kỹ năng chuyên môn trong ngành ngân hàng.

Trong suốt 7 năm làm việc Mayer đã hấp thu những kỳ mưu diệu kế trong ngành tài chính được truyền từ Anh sang. Nhờ vào khả năng làm việc xuất sắc của mình, anh được đề bạt trở thành cổ đông sơ cấp.Anh còn đổi họ của mình thành Rothschild (Roth trong tiếng Đức có nghĩa là màu đỏ còn Schild có nghĩa là dấu mốc).

Ngoài việc học những kiến thức trong ngành ngân hàng, Mayer còn rất dụng công trong việc sưu tập và nhận diện các loại tiền cổ. Điều này bắt nguồn từ truyền thống gia đình, đồng thời cũng là hứng thú cá nhân của Mayer. Và chính sở thích riêng này đã tạo ra cho Mayer những cơ hội để xây dựng đế chế ngân hàng cho gia tộc mình.

Lúc bấy giờ, có một vị tướng quân của Đức tên là Stuaffer rất thích sưu tập tiền cổ. Nhờ mối quen biết khi làm ở ngân hàng, Mayer đã tìm cách lợi dụng tướng Stuaffer để tìm kiếm cơ hội cho mình bằng cách vận dụng những hiểu biết rất có nghề của anh về sưu tập tiền cổ đểm làm hài lòng vị tướng này.

Không chỉ giúp cho khả năng sưu tập của tướng Stuaffer được nâng cao, Mayer còn khiến Stuaffer rất vui vì hơn một lần anh ta tự nguyện bán cho vị tướng này mấy đồng tiền cổ quý hiếm với giá rất hời. Dần dần, Stuaffer bắt đầu coi Mayer như một tri kỷ. Mối quan hệ với Stuffer sau này đã giúp ích rất lớn cho sự nghiệp của Mayer.

2. Năm 1764, Mayer trở về Frankfurt và mở cửa hàng của riêng mình tại “Phố Do Thái” chuyên đổi tiền và mua bán các loại tiền cổ. Tới năm 1770, Mayer kết hôn với một con gái của một thương nhân Do Thái tên là Guttle Schnapper. Cuộc hôn nhân này đã giúp Mayer có được một khoản tiền hồi môn khổng lồ trở thành món tiền vốn đầu tiên của Mayer.

Điều quan trọng hơn nữa là, cuộc hôn nhân với Guttle đã giúp Mayer có một đàn con tổng cộng 19 đứa. Tuy nhiên, trong đó những đứa con sống được bao gồm 5 cậu con trai, 5 cô con gái. Chính 5 người con trai này sau này trở thành những ông trùm tài chính của các quốc gia châu Âu, được người ta gọi là “5 con hổ nhà Rothschild”.

Nhờ mối quan hệ với tướng Stuaffer, một hôm, Mayer được vua William tiếp kiến, và anh nhanh chóng nhận ra vị vua này cũng là một nhà sưu tầm tiền cổ, vậy là Mayer đã có cách tương tự để lấy lòng William.

Sau nhiều lần được Mayer bán cho những đồng tiền giá rẻ, vua William tỏ ra ấy náy bèn hỏi Mayer có cần giúp gì không. Và không bỏ lỡ thời cơ, Mayer đề xuất muốn trở thành người đại diện chính thức cho hoàng cung và ngay tức khắc anh được William đồng ý.

Ngày 21/9/1769, Mayer đã gắn huy hiệu hoàng gia lên tấm biển hiệu của mình với dòng chữ “Rothschild, người đại diện do vua William chỉ định”. Uy tín của Mayer lên như cồn và công việc làm ăn cũng theo đó mà lên.

Năm 1800, dòng họ Rothschild trở thành một trong những dòng họ Do Thái giàu có nhất ở Frankfurt. Trong năm này Mayer còn được nhận danh hiệu” đại diện hoàng gia đế chế” do quốc vương của xứ La Mã thần thánh trao cho.

Danh hiệu này khiến ông có thể đi lại khắp nơi trong đất nước, được miễn trừ các loại thuế đánh vào người Do Thái, thậm chí nhân viên công ty của ông còn có thể mang vũ khí theo người. Tới năm 1806, Kassel, vua William buộc phải bỏ trốn ra nước ngoài.

May mắn, toàn bộ số tài sản của hoàng thất đã được quan tài chính Buderus chuyển sang nơi khác. Sau đó, Buderus nỗ lực để William ký bản hợp đồng giao quyền quản lý tài chính cho Rothschild. Thực chất, Buderus và Rothschild đã thỏa thuận với nhau từ trước để ăn chia khoản lời do bản hợp đồng mang lại.

Có trong tay một khoản tiền lớn, chiến tranh trở thành thời cơ để Rothschild triển khai tham vọng phát tài của mình: Cho các vương công quý tộc, buôn bán vải bông, lương thực, vũ khí… phục vụ chiến tranh…. Nhờ sự nhạy bén trong việc kinh doanh, đế chế của Rothschild phát triển rất nhanh và bắt đầu lan ra khỏi phạm vi nước Đức.

Mayer có 5 người con như năm mũi tên sắc bén nhằm vào khu vực trung tâm của Châu Âu. Người con cả Amschel trấn giữ toàn vùng Frankfurt, con thứ Salomon được cử đến Vienna khai phá chiến trường mới, người thứ 3 Nathan được phái đến Anh để nắm giữ đại cuộc, người thứ 4 Calmann được cử đến Napoli của Ý để xây dựng căn cứ địa và đóng vai trò con thoi truyền đạt thông tin giữa các anh em, và người con út là James thì nắm giữ nhiệm vụ tác nghiệp ở Paris. Một đế quốc tài chính trong lịch sử loài người đã được hình thành.

3. Trong số 5 người con của gia tộc Rothschild, cậu con trai thứ 3, Nathan là người gan dạ, thông minh nhất. Năm 1789, Nathan được cha điều chuyển từ Frankfurt đến Anh để khai phá lĩnh vực ngân hàng của dòng họ Rothschild.

Nathan là một chuyên gia ngân hàng có lòng dạ thâm hiểm và cách hành xử quyết đoán. Do có tài năng thiên bẩm đáng kinh ngạc về tài chính cũng như các thủ đoạn tinh vi, đến năm 1815, ông ta đã trở thành một trong những ông trùm ngân hàng nổi tiếng tại London. Hệ thống ngân hàng của dòng họ Rothschild xây dựng là tập đoàn ngân hàng đầu tiên trên thế giới

Thời gian này 5 anh em nhà Rothschild đang tập trung chú ý tình hình chiến tranh châu Âu năm 1815.Đây là một cuộc chiến quan trọng có liên quan đến số phận và tiền đồ của đại lục Châu Âu.

Nếu như Napoleon giành thắng lợi chung cuộc thì nước Pháp sẽ ở vào vị thế của đại lục châu Âu. Còn nếu công tước Wellington đánh bại được quân Pháp thì nước Anh sẽ ở vào thế cân bằng chiến lược của một nước lớn chủ đạo Châu Âu lục địa này.

Ngày 18/6/1815, trận Waterloo được triển khai ở ngoại ô Brussel, nước Bỉ. Đó ko chỉ là cuộc chiến sinh tử giữa hai đoàn hùng binh của Napoleon và Wellington mà còn là canh bạc lớn của hàng vạn nhà đầu tư, kẻ thắng sẽ giàu vô biên, còn kẻ thua sẽ trắng tay, mất nghiệp.

Không khí trên thị trường giao dịch cổ phiếu London căng thẳng đến cực điểm, tất cả mọi người đều chờ đợi kết quả cuối cùng của Waterloo trong lo âu. Nếu nước Anh thất bại thì giá trái phiếu của xứ sở xương mù sẽ rớt xuống đáy vực, còn nếu thắng, trái phiếu sẽ tăng lên ngút trời.

Khi hai đoàn hùng binh chạm trán nhau trong những trận chiến sống mái thì các gián điệp của Rothschild cũng khẩn trương cố gắng hết sức để thu thập thông tin tình báo chính xác về tình hình chiến sự của hai bên.

Đến tối Napoleon thất bại thì sáng sớm hôm sau Nathan đã có được thông tin. Sau khi biết được thông tin chiến sự, Nathan thúc ngựa lao thẳng về phía Sở giao dịch chứng khoán London.

Khi Nathan vừa bước chân vào sở giao dịch chứng khoán, tất cả những người đang chờ tin chiến tranh trong bầu không khí sốt ruột ở đó lập tức yên lặng. Mọi con mắt đều đổ dồn vào gương mặt đầy bí ẩn ko lộ chút cảm xúc của Nathan. Im lặng trong giây lát, Nathan liếc mắt ra hiệu cho nhà đầu tư cổ phiếu của gia tộc Rothschild đang đứng bên, bắt đầu bán đổ bán tháo công trái Anh.

Đại sảnh thoáng chốc trở nên hoảng loạn. Cuối cùng, trong đại sảnh sở giao dịch có người đã thét lên: “Rothschild đã biết rồi, Wellington đã thất bại!”. Tất cả mọi người ngay lập tức hoảng loạn như bị điện giật. Cuộc bán tháo trái phiếu cuối cùng trở nên hỗn loạn.

Trong lúc mất hết lí trí, người này đã bắt chước người kia tạo nên một hiệu ứng tự phát. Mỗi người đều muốn bán tống bán đổ những trái phiếu nước Anh trong tay vốn đã ko còn chút giá trị, cố vớt vát được gì hay nấy. Sau mấy giờ bán đổ bán tháo như vậy, trái phiếu của Anh đã chất đống như một đống rác.

Trong lúc đó, Nathan vẫn thản nhiên ngồi quan sát mọi chuyện xảy ra. Rồi ông liếc mắt ra lệnh cho người đầu tư cổ phiếu của dòng họ Rothschild mua lại toàn bộ công trái Anh vừa được bán ra với giá rẻ như bèo. Đêm ngày 21/6, nghĩa là hơn một ngày sau đó, người đưa tin của công tước Wellington mới về đến London.

Tin cho hay, đại quân của Napoleon đã thất bại hoàn toàn sau trận đánh suốt 8h, tổn thất một phần 3 số quân, nước Pháp đã thua trận.

Tuy nhiên, lúc này thông tin này đã trở nên vô nghĩa, Nathan đã kiếm được một lượng tiền gấp 20 lần so với tổng số của cải mà Napoleon và Wellington đã có được trong mấy chục năm chiến tranh.

Trận chiến Waterloo đã biến Nathan thành chủ nợ lớn nhất của chính phủ Anh để từ đó chi phối quyền phát hành công trái của nước này. Công trái Anh chính là chứng từ thu thuế của chính phủ trong tương lai, và nghĩa vụ nộp các khoản thuế của người dân Anh cho chính phủ đã biến tướng thành việc trưng thu thuế mà ngân hàng Rothschild đánh vào người dân.

Khi đã nắm giữ công trái Anh với số lượng áp đảo, trên thực tế Nathan là người đang quyết định giá trị của công trái, chi phối hoàn toàn lượng cung ứng tiền tệ của nước Anh, và như vậy, mạch máu kinh tế của nước Anh đã bị gia tộc Rothschild siết chặt.

Ngày nay, khi nhắc tới người giàu nhất thế giới, người ta thường chỉ nghĩ tới ba cái tên: Bill Gates, Warren Buffett và Carlos Slim. Ba người này chỉ thay đổi vị trí từ số 1 đến số 3 trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Tuy nhiên, thực chất, những gia tộc quyền thế như Rothschild mới thực sự là những người giàu nhất thế giới, dù chưa bao giờ họ công khai lộ diện.

Phunutoday.vn

Những kỷ lục của nhà tài phiệt Soros


Tỷ phú đầu cơ George Soros luôn khiến thế giới tài chính phải bất ngờ trước những quyết định đầu tư làm chao đảo thị trường.

George Soros sinh ra ở Hungary. Tuổi thơ của nhà tỷ phú này gắn liền với những ngày kinh hoàng khi phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Năm 1947, Soros sang London một mình, bắt đầu cuộc đời khốn khó của dân nhập cư, kiếm kế sinh nhai bằng các nghề từ bồi bàn đến thu hoạch táo và sơn nhà thuê.

George Soros vào học tại Học viện Kinh tế – Chính trị London (London School of Economics) và tốt nghiệp năm 1952. Năm 1956, Soros sang Mỹ đoàn tụ với gia đình và nhập quốc tịch Mỹ. Ông bắt đầu khởi nghiệp với 5000 USD. Phương châm của Soros khá đặc biệt: trong kinh doanh, việc đúng hay sai không quan trọng, cái quan trọng là nếu đúng sẽ có được bao nhiêu tiền, và nếu sai sẽ mất bao nhiêu tiền.

Năm 1973, sau một thời gian hoạt động trong lĩnh vực buôn bán chứng khoán, ông lập công ty quản lý tài chính Soros với số vốn 17 triệu USD. Năm 1979 sau đó, ông đã tăng ngân sách của mình lên 100 triệu USD.

Soros là chủ của Soros Quantum Fund. Năm 1998, giá trị của quỹ này tăng lên tới 6 tỷ USD. Bằng những phân tích chiến lược, Soros đã nhanh chóng đưa quỹ đầu cơ Quantum – quỹ đầu tư tư nhân đầu tiên trên thế giới thành một quỹ có tầm ảnh hưởng lớn. Quỹ Quantum của ông bao gồm một loạt nhà đầu tư lắm tiền, nhiều của thường kiếm lợi qua đầu cơ, gây mất ổn định các đồng tiền nước ngoài.

Nhiều chuyên gia kinh tế phố Walls cho rằng Soros là một con người kỳ lạ, trong khi mọi người đi bên phải, riêng Soros đi bên trái nhưng lại tỏ ra là mình đang đi đúng hướng.

Trong 20 năm qua, ông luôn được xếp trong số những người giàu nhất hành tinh. Tại nước Mỹ, Soros đứng thứ 24 với tổng tài sản 7,2 tỷ USD.

Những cú đầu tư kỷ lục

Soros được mệnh danh là kẻ "phá sập" Ngân hàng trung ương Anh.

Giới quan sát cho rằng: Soros là tác nhân chính làm chao đảo Ngân hàng Trung ương Anh năm 1992, gây ra sự đổ vỡ của đồng rúp Nga năm 1998 và cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997.

Thủ đoạn chính của Soros là mua vào, bán ra các loại ngoại tệ mạnh để kiếm lời. Chẳng thế mà với số vốn ban đầu chỉ có 6 triệu USD năm 1969 đến năm 1999, Quantum đã có 5,5 tỷ USD.

Khi thị trường chứng khoán của Nhật Bản đổ vỡ năm 1990, người ta lập tức liên hệ đến George Soros bởi mối quan hệ khá mật thiết với Quỹ đầu tư Salomon Brothers. Trong vụ này, Salomon Brothers là thủ phạm khởi động nền kinh tế bong bóng vào mùa đông năm 1989 và cũng chính hãng này làm nó đổ vỡ hoàn toàn vào năm 1990.

Tháng 9/1992, Soros đưa ra lời dự đoán nổi tiếng nhất. Bằng khoản đầu tư trị giá 10 tỷ USD vào đồng Bảng Anh (GBP), George Soros chính là người đã làm cho đồng GBP phải rút khỏi hệ thống tỷ giá hối đoái châu Âu (ERM).

Nạn nhân tiếp theo của George Soros bị ảnh hưởng bởi dây chuyền khủng hoảng kinh tế châu Á chính là Mỹ. Cuộc khủng hoảng này đã tràn đến phố Walls vào tháng 10/1997, gây tâm lý lo ngại sự sụp đổ hàng loạt các thị trường tài chính trên thế giới khiến các nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu tại Mỹ vào ngày 27/10. Cũng vào ngày hôm đó, chỉ số Dow Jones đã rớt xuống 554,26 điểm, phá vỡ mức kỷ lục của “Ngày thứ hai đen tối” ở Mỹ vào năm 1987.

Giữa những năm 90, thông qua các hội mở, Soros đã bơm tổng cộng 1 tỷ USD vào Nga, lũng đoạn thị trường hối đoái Nga, trục lợi qua sự kiện sụp đổ của đồng Rúp. Gần đây nhất, ông ta lại tìm cách can thiệp vào chính trường Ukraina , Kazakhstan .

Gần đây nhất, tỷ phú này đã kiếm được 1 tỷ USD kể từ tháng 11/2012 nhờ dự đoán đồng yên Nhật sẽ lao dốc. Nhiều thông tin đồn đoán, nạn nhân tiếp theo của Soros có thể là đô la Australia và bảng Anh. Thực tế, đồng Aussie của Australia giảm mạnh ngay sau khi Sydney Morning Herald đưa tin một nhà đầu tư bí mật, và rất có thể là quỹ đầu tư Soros đã đặt cược tổng cộng 1 tỷ USD vào đồng Aussie thông qua thị trường Hong Kong và Singapore.

Theo Dân trí

12 CEO công nghệ hưởng lương ngất ngưởng

1. Larry Ellison: 96,2 triệu USD


Công ty: Oracle
Lương thưởng tiền mặt: 5,5 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 90,7 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 24%

Bất chấp mức lương 1 USD, Ellison vẫn tiếp tục là CEO công nghệ có thu nhập cao nhất trong năm ngoái, đồng thời cũng là CEO có lương thưởng cao nhất trong tất cả các ngành – Ảnh: CNN Money.

2. Marissa Mayer: 36,6 triệu USD



Công ty: Yahoo
Lương thưởng tiền mặt: 1,6 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 35 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: Không rõ (Mayer mới gia nhập Yahoo từ tháng 7/2012)
Ảnh: CNN Money

3. John Donahoe: 29,7 triệu USD



Công ty: eBay
Lương thưởng tiền mặt: 4 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 25,7 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 81%
Ảnh: CNN Money

4. Marc Benioff: 22,1 triệu USD


Công ty: Salesforce.com
Lương thưởng tiền mặt: 3,2 triệu USD

Cổ phiếu và các quyền chọn: 18,9 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 25%
Ảnh: CNN Money

5. Randall Stephenson: 21 triệu USD



Công ty: AT&T
Lương thưởng tiền mặt: 8,4 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 12,6 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 12%
Ảnh: CNN Money

6. Paul Jacobs: 20,7 triệu USD



Công ty: Qualcomm
Lương thưởng tiền mặt: 5,7 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 15 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: -5%
Ảnh: CNN Money

7. Paul Otellini: 18,9 triệu USD




Công ty: Intel
Lương thưởng tiền mặt: 7 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 11,9 triệu USD

Mức thay đổi trong vòng một năm: 10%
Ảnh: CNN Money

8. John Coyne: 17,2 triệu USD




Công ty: Western Digital
Lương thưởng tiền mặt: 7,8 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 9,4 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 146%
Ảnh: CNN Money

9. Joseph Tucci: 16,6 triệu USD



Công ty: EMC
Lương thưởng tiền mặt: 2,6 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 14 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: 25%
Ảnh: CNN Money

10. Meg Whitman: 15,4 triệu USD


Công ty: Hewlett-Packard
Lương thưởng tiền mặt: 1,9 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 13,5 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: Không rõ
Ảnh: CNN Money

11. Ginni Rometty: 15,4 triệu USD


Công ty: IBM
Lương thưởng tiền mặt: 6,1 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 9,3 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: Không rõ
Ảnh: CNN Money

12. Scott McGregor: 15,1 triệu USD



Công ty: Broadcom
Lương thưởng tiền mặt: 3,3 triệu USD
Cổ phiếu và các quyền chọn: 11,8 triệu USD
Mức thay đổi trong vòng một năm: -6%
Ảnh: CNN Money



Theo VnEconomy, CNN Money

LỊCH SỰ KIỆN

 
Bản quyền thuộc về Fx4Pro - Cập nhật thông tin 24/7 © 2013. | Post RSS | Comments RSS DMCA.com Protection Status
Tìm hiểu Forex là gì | Quản lý vốn đầu tư | Tâm lý giao dịch | Cách đọc đồ thị nến nhật | Xác định hỗ trợ và kháng cự | Phương pháp giao dịch Price Action | Giao dịch theo mô hình giá | Giao dịch với Indicator | Giao dịch theo sóng Elliott | Giao dịch theo hệ thống Ichimoku | Giao dịch theo tin tức | Kinh nghiệm giao dịch | Các hệ thống giao dịch chuẩn | Tin tức